Ho ra máu là gì? Các công bố khoa học về Ho ra máu

Hổ ra máu là một tình trạng mà hổ, hoặc bất kỳ loài động vật hoang dã nào, bị ra máu từ mũi hoặc miệng. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể là do chấn thương ...

Hổ ra máu là một tình trạng mà hổ, hoặc bất kỳ loài động vật hoang dã nào, bị ra máu từ mũi hoặc miệng. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể là do chấn thương hoặc bị tổn thương trong quá trình săn mồi hoặc xung đột với loài khác. Nó cũng có thể là biểu hiện của một bệnh hoặc vấn đề sức khỏe khác. Việc hổ ra máu có thể chỉ đơn giản là do một phản ứng tạm thời từ chấn thương, nhưng nếu tình trạng này kéo dài hoặc đi kèm với các triệu chứng khác, nó có thể là dấu hiệu của một vấn đề nghiêm trọng hơn và cần được chăm sóc y tế kịp thời.
Hổ ra máu có thể được chia thành các loại khác nhau, bao gồm:

1. Hổ ra máu từ mũi: Đây thường là tình trạng phổ biến nhất khi hổ ra máu. Nguyên nhân có thể là do hàng rào hoặc sừng của nạn nhân hoặc xung đột với loài khác gây tổn thương mũi. Bên cạnh đó, một số bệnh lý như viêm xoang, viêm mũi, hoặc tổn thương mô mềm cũng có thể gây ra việc hổ ra máu từ mũi.

2. Hổ ra máu từ miệng: Nếu hổ ra máu từ miệng, đó có thể là do một vết thương hoặc tổn thương nghiêm trọng trong vùng miệng. Tuy nhiên, nó cũng có thể là do các vấn đề sức khỏe khác như viêm nhiễm, nhiễm trùng hoặc bệnh lý.

3. Hổ ra máu từ hầu họng hoặc tiểu phế quản: Nếu hổ ra máu từ vùng này, đây có thể là dấu hiệu của một bệnh lý hoặc tổn thương nghiêm trọng. Ví dụ, viêm hầu họng, viêm phế quản, khối u trong hô hấp hoặc tổn thương cơ quan hô hấp có thể gây ra hiện tượng này. Đôi khi, hổ ra máu từ hầu họng hoặc tiểu phế quản do một vết thương sau một cuộc chiến.

Khi hổ ra máu, nếu tình trạng này kéo dài hoặc kèm theo các triệu chứng khác như khó thở, yếu đuối, chảy máu nghiêm trọng, sốt, hoặc sự thay đổi trong hành vi hoặc thói quen ăn uống, nên đưa hổ tới một bác sĩ thú y để được kiểm tra và chẩn đoán chính xác.
Các nguyên nhân cụ thể của hổ ra máu có thể bao gồm:

1. Chấn thương: Hổ ra máu có thể xuất hiện sau một chấn thương do xung đột với con mồi hoặc trong quá trình săn mồi. Những chấn thương này có thể gây tổn thương đến mũi, miệng, hầu họng hoặc các cơ quan nội tạng khác.

2. Bệnh lý hô hấp: Một số bệnh lý hô hấp có thể gây ra hổ ra máu, bao gồm viêm phế quản, viêm khí quản, viêm phổi hoặc các khối u trong hô hấp. Các vết thương và viêm nhiễm trong khu vực hô hấp cũng có thể gây ra hiện tượng này.

3. Bệnh nhiễm trùng: Nhiễm trùng trong mũi, miệng hoặc hầu họng có thể gây ra hổ ra máu. Các loại vi khuẩn, virus, nấm hoặc kí sinh trùng có thể gây ra viêm nhiễm và chảy máu.

4. Bệnh lý tiêu hóa: Một số bệnh lý tiêu hóa như loét dạ dày, viêm ruột hoặc các khối u trong dạ dày, ruột cũng có thể gây ra hổ ra máu. Khi có vết thương hoặc tổn thương trong tiêu hóa, có thể xuất hiện máu trong lượng chất tiêu hóa.

5. Các vấn đề máu: Một số bệnh lý máu, chẳng hạn như bệnh khó đông máu, bệnh bạch cầu hoặc các rối loạn máu khác, cũng có thể gây ra hiện tượng hổ ra máu.

Để chẩn đoán chính xác và điều trị hổ ra máu, thông thường cần phải thăm khám và tư vấn y tế từ các chuyên gia bác sĩ thú y. Họ sẽ tiến hành các kiểm tra, xét nghiệm và hình ảnh cần thiết để xác định nguyên nhân cụ thể và quyết định phương pháp điều trị phù hợp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ho ra máu":

Hạn chế và Độ đồng nhất Điện tử trong Graphene Epitaxial Có Mẫu Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 312 Số 5777 - Trang 1191-1196 - 2006

Graphene epitaxial mỏng siêu mịn đã được phát triển trên silicon carbide đơn tinh thể bằng cách graphit hóa chân không. Vật liệu này có thể được tạo hình bằng các phương pháp nanolithography tiêu chuẩn. Các đặc tính vận chuyển, có mối liên hệ chặt chẽ với các loại ống nanot carbon, chủ yếu được xác định bởi lớp graphene epitaxial đơn lẻ tại giao diện silicon carbide và cho thấy tính chất Dirac của các hạt mang điện. Các cấu trúc có mẫu cho thấy hiện tượng hạn chế lượng tử của electron và chiều dài tương hợp pha vượt quá 1 micromet ở nhiệt độ 4 kelvin, với độ linh hoạt vượt quá 2.5 mét vuông trên volt-giây. Các thiết bị điện tử hoàn toàn bằng graphene đồng nhất và kiến trúc thiết bị được dự kiến sẽ phát triển.

#Graphene epitaxial mỏng #silicon carbide #graphit hóa chân không #vận chuyển điện tử #hạn chế lượng tử #độ đồng nhất pha
Phiên bản rút gọn của Thang đánh giá trầm cảm, lo âu và căng thẳng (DASS‐21): Tính giá trị cấu trúc và dữ liệu chuẩn hóa trong một mẫu lớn không có bệnh lý Dịch bởi AI
British Journal of Clinical Psychology - Tập 44 Số 2 - Trang 227-239 - 2005

Mục tiêu. Kiểm tra tính giá trị cấu trúc của phiên bản rút gọn của thang đánh giá trầm cảm, lo âu và căng thẳng (DASS-21), đặc biệt đánh giá xem căng thẳng theo chỉ số này có đồng nghĩa với tính cảm xúc tiêu cực (NA) hay không hay nó đại diện cho một cấu trúc liên quan nhưng khác biệt. Cung cấp dữ liệu chuẩn hóa cho dân số trưởng thành nói chung.

Thiết kế. Phân tích cắt ngang, tương quan và phân tích yếu tố xác nhận (CFA).

Phương pháp. DASS-21 được áp dụng cho một mẫu không có bệnh lý, đại diện rộng cho dân số trưởng thành tại Vương quốc Anh (N=1,794). Các mô hình cạnh tranh về cấu trúc tiềm ẩn của DASS-21 đã được đánh giá sử dụng CFA.

Kết quả. Mô hình có sự phù hợp tối ưu (RCFI = 0.94) có cấu trúc tứ phương, bao gồm một yếu tố chung của rối loạn tâm lý cộng với các yếu tố cụ thể vuông góc của trầm cảm, lo âu, và căng thẳng. Mô hình này có sự phù hợp tốt hơn đáng kể so với mô hình cạnh tranh kiểm tra khả năng rằng thang đo Stress chỉ đơn giản đo NA.

Kết luận. Các thang đo phụ DASS-21 có thể được sử dụng hợp lệ để đo lường các khía cạnh của trầm cảm, lo âu và căng thẳng. Tuy nhiên, mỗi thang đo phụ này cũng chạm đến một khía cạnh chung hơn của rối loạn tâm lý hoặc NA. Sự tiện ích của thang đo được nâng cao nhờ có dữ liệu chuẩn hóa dựa trên một mẫu lớn.

#Thang đánh giá trầm cảm #lo âu #căng thẳng #DASS-21 #giá trị cấu trúc #dữ liệu chuẩn hóa #phân tích yếu tố xác nhận #rối loạn tâm lý #cảm xúc tiêu cực.
Tetramethyl benzidine cho hóa sinh thần kinh horseradish peroxidase: sản phẩm phản ứng màu xanh không gây ung thư với độ nhạy cao hơn để hình dung các sợi thần kinh đến và đi. Dịch bởi AI
Journal of Histochemistry and Cytochemistry - Tập 26 Số 2 - Trang 106-117 - 1978

Tetramethyl benzidine (TMB) là một chromogen có khả năng không gây ung thư có khả năng tạo ra sản phẩm phản ứng màu xanh tại các vị trí hoạt động của horseradish peroxidase. Sáu mươi sáu thủ tục khác nhau đã được thực hiện trên chuột và khỉ để xác định các thông số ủ tối ưu cho TMB. Kết quả, một thủ tục được khuyến nghị với độ nhạy vượt trội hơn nhiều so với phương pháp benzidine dihydrochloride đã được miêu tả trước đó. Thực tế, độ nhạy của phương pháp mới này trong việc chứng minh sự vận chuyển ngược rất vượt trội so với phương pháp benzidine dihydrochloride đã được miêu tả trước đó. Hơn nữa, nhờ vào độ nhạy được cải thiện này, nhiều kết nối efferent của vị trí tiêm cũng được hình dung. Vị trí tiêm được thể hiện bằng thủ tục TMB này lớn hơn đáng kể so với vị trí được thể hiện khi sử dụng benzidine dihydrochloride hoặc diaminobenzidine làm chromogen. Cuối cùng, thủ tục TMB này đã được so sánh với hai thủ tục TMB khác và được tìm thấy cung cấp cả hình thái và độ nhạy cao hơn.

#Tetramethyl benzidine #horseradish peroxidase #chromogen #độ nhạy #sợi thần kinh
CiteSpace II: Phát hiện và hình dung xu hướng nổi bật và các mẫu thoáng qua trong văn học khoa học Dịch bởi AI
Wiley - Tập 57 Số 3 - Trang 359-377 - 2006
Tóm tắt

Bài viết này mô tả sự phát triển mới nhất của một cách tiếp cận tổng quát để phát hiện và hình dung các xu hướng nổi bật và các kiểu tạm thời trong văn học khoa học. Công trình này đóng góp đáng kể về lý thuyết và phương pháp luận cho việc hình dung các lĩnh vực tri thức tiến bộ. Một đặc điểm là chuyên ngành được khái niệm hóa và hình dung như một sự đối ngẫu theo thời gian giữa hai khái niệm cơ bản trong khoa học thông tin: các mặt trận nghiên cứu và nền tảng trí tuệ. Một mặt trận nghiên cứu được định nghĩa như một nhóm nổi bật và nhất thời của các khái niệm và các vấn đề nghiên cứu nền tảng. Nền tảng trí tuệ của một mặt trận nghiên cứu là dấu chân trích dẫn và đồng trích dẫn của nó trong văn học khoa học—một mạng lưới phát triển của các ấn phẩm khoa học được trích dẫn bởi các khái niệm mặt trận nghiên cứu. Thuật toán phát hiện bùng nổ của Kleinberg (2002) được điều chỉnh để nhận dạng các khái niệm mặt trận nghiên cứu nổi bật. Thước đo độ trung gian của Freeman (1979) được sử dụng để làm nổi bật các điểm chuyển đổi tiềm năng như các điểm chịu ảnh hưởng nền tảng trong thời gian. Hai quan điểm hình dung bổ sung được thiết kế và thực hiện: các quan điểm cụm và các quan điểm vùng thời gian. Những đóng góp của phương pháp là (a) bản chất của một nền tảng trí tuệ được nhận diện bằng thuật toán và theo thời gian bởi các thuật ngữ mặt trận nghiên cứu nổi bật, (b) giá trị của một cụm đồng trích dẫn được diễn giải rõ ràng theo các khái niệm mặt trận nghiên cứu, và (c) các điểm chịu ảnh hưởng nổi bật và được phát hiện bằng thuật toán giảm đáng kể độ phức tạp của một mạng lưới đã được hình dung. Quá trình mô hình hóa và hình dung được thực hiện trong CiteSpace II, một ứng dụng Java, và áp dụng vào phân tích hai lĩnh vực nghiên cứu: tuyệt chủng hàng loạt (1981–2004) và khủng bố (1990–2003). Các xu hướng nổi bật và các điểm chịu ảnh hưởng trong mạng lưới được hình dung đã được xác minh phối hợp với các chuyên gia trong lĩnh vực, là tác giả của các bài báo chịu ảnh hưởng. Các ngụ ý thực tiễn của công trình được thảo luận. Một số thách thức và cơ hội cho các nghiên cứu sau này được xác định.

#CiteSpace II #phát hiện xu hướng #khoa học thông tin #mặt trận nghiên cứu #khái niệm nổi bật #đồng trích dẫn #thuật toán phát hiện bùng nổ #độ trung gian #cụm quan điểm #vùng thời gian #mô hình hóa #lĩnh vực nghiên cứu #tuyệt chủng hàng loạt #khủng bố #ngụ ý thực tiễn.
Tăng Nồng độ Ngoại bào của Glutamate và Aspartate trong Hippocampus của Chuột trong Giai đoạn Thiếu Máu Não Cục Bộ Thoáng Qua Được Theo Dõi Bằng Phương Pháp Siêu Lọc Micro não bộ Dịch bởi AI
Journal of Neurochemistry - Tập 43 Số 5 - Trang 1369-1374 - 1984

Tóm tắt: Các con chuột được sử dụng làm thí nghiệm đã được cấy ghép các ống lọc siêu nhỏ có đường kính 0.3 mm qua hippocampus và được bơm dung dịch Ringer với lưu lượng 2μ1/phút. Các mẫu dung dịch từ dịch ngoại bào được thu thập trong khoảng thời gian 5 phút và được phân tích cho các thành phần axit amino là glutamate, aspartate, glutamine, taurine, alanine và serine. Các mẫu được thu thập trước, trong và sau khoảng thời gian 10 phút của thiếu máu não cục bộ hoàn toàn thoáng qua. Nội dung ngoại bào của glutamate và aspartate đã tăng tám và ba lần tương ứng trong giai đoạn thiếu máu não cục bộ; nồng độ taurine cũng tăng 2.6 lần. Trong cùng giai đoạn, nội dung ngoại bào của glutamine giảm đáng kể (xuống còn 68% giá trị kiểm soát), trong khi nồng độ alanine và serine không thay đổi đáng kể trong giai đoạn thiếu máu. Nồng độ của gamma-aminobutyric acid (GABA) quá thấp để có thể đo lường một cách đáng tin cậy. Đề xuất rằng sự tăng mạnh về nội dung glutamate và aspartate ngoại bào trong hippocampus do thiếu máu cục bộ có thể là một trong những yếu tố gây ra tổn thương cho một số neuron quan sát được sau thiếu máu.

#di truyền học #sinh lý học thần kinh #thiếu máu não #glutamate #aspartate #giai đoạn thiếu máu não cục bộ #chuột thí nghiệm #phân tích amino acid
Vai trò của stress oxy hóa trong các biến chứng tiểu đường: một góc nhìn mới về một khuôn mẫu cũ. Dịch bởi AI
Diabetes - Tập 48 Số 1 - Trang 1-9 - 1999

Stress oxy hóa và tổn thương oxy hóa đối với các mô là những điểm kết thúc phổ biến của các bệnh mãn tính, chẳng hạn như xơ vữa động mạch, tiểu đường và viêm khớp dạng thấp. Câu hỏi được đặt ra trong bài tổng quan này là liệu stress oxy hóa gia tăng có vai trò chính trong sinh bệnh học của các biến chứng tiểu đường hay nó chỉ đơn thuần là một chỉ báo thứ cấp của tổn thương mô giai đoạn cuối trong tiểu đường. Sự gia tăng các sản phẩm glycoxid hóa và lipoxid hóa trong huyết tương và protein mô cho thấy stress oxy hóa gia tăng trong tiểu đường. Tuy nhiên, một số sản phẩm này, chẳng hạn như các hợp chất 3-deoxyglucosone gắn với các dư lượng lysine và arginine, được hình thành độc lập với hóa học oxy hóa. Mức độ nền tảng cao của các nền tảng có thể oxy hóa cũng có thể giải thích cho sự gia tăng các sản phẩm glycoxid hóa và lipoxid hóa trong protein mô, mà không cần thiết phải viện dẫn sự gia tăng trong stress oxy hóa. Hơn nữa, mức độ amino acid bị oxy hóa đã điều chỉnh theo tuổi tác, một chỉ báo cụ thể hơn về stress oxy hóa, không tăng trong collagen da ở bệnh tiểu đường. Chúng tôi đề xuất rằng sự gia tăng sửa đổi hóa học của protein bởi carbohydrate và lipid trong tiểu đường là kết quả của sự quá tải lên các con đường trao đổi chất liên quan đến việc giải độc các hợp chất carbonyl phản ứng, dẫn đến mức độ ổn định chung tăng lên của các hợp chất carbonyl phản ứng được hình thành bởi cả phản ứng oxy hóa và không oxy hóa. Sự gia tăng glycoxid hóa và lipoxid hóa của protein mô trong tiểu đường do đó có thể được coi là kết quả của sự gia tăng stress carbonyl. Sự phân biệt giữa stress oxy hóa và stress carbonyl được thảo luận cùng với các ý nghĩa điều trị của sự khác biệt này.

#stress oxy hóa #tiểu đường #glycoxid hóa #lipoxid hóa #tổn thương mô #carbonyl phản ứng #biến chứng tiểu đường
Thử nghiệm ngẫu nhiên giai đoạn II so sánh Bevácizumab kết hợp với Carboplatin và Paclitaxel với Carboplatin và Paclitaxel đơn thuần ở bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ chưa điều trị trước đó tiến triển tại chỗ hoặc di căn Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 22 Số 11 - Trang 2184-2191 - 2004
Mục đích

Điều tra hiệu quả và độ an toàn của bevacizumab kết hợp với carboplatin và paclitaxel ở các bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến triển hoặc tái phát.

Bệnh nhân và Phương pháp

Trong một thử nghiệm giai đoạn II, 99 bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên thành bevacizumab 7.5 (n = 32) hoặc 15 mg/kg (n = 35) kết hợp với carboplatin (diện tích dưới đường cong = 6) và paclitaxel (200 mg/m2) mỗi 3 tuần, hoặc carboplatin và paclitaxel đơn thuần (n = 32). Điểm cuối chính của hiệu quả là thời gian tiến triển bệnh và tỷ lệ đáp ứng tốt nhất được xác nhận. Khi bệnh tiến triển, các bệnh nhân ở nhánh kiểm soát có cơ hội nhận bevacizumab đơn trị liệu 15 mg/kg mỗi 3 tuần.

Kết quả

So với nhánh kiểm soát, điều trị bằng carboplatin và paclitaxel cộng với bevacizumab (15 mg/kg) mang lại tỷ lệ đáp ứng cao hơn (31,5% so với 18,8%), thời gian trung bình tiến triển bệnh dài hơn (7,4 tháng so với 4,2 tháng) và sự gia tăng khiêm tốn trong thời gian sống sót (17,7 tháng so với 14,9 tháng). Trong số 19 bệnh nhân kiểm soát chuyển sang sử dụng bevacizumab đơn trị liệu, 5 bệnh có trạng thái ổn định và tỷ lệ sống 1 năm là 47%. Xuất huyết là tác dụng phụ nổi bật nhất, biểu hiện dưới hai mẫu lâm sàng khác nhau: chảy máu niêm mạc nhẹ và ho ra máu lớn. Ho ra máu lớn liên quan đến mô học tế bào vảy, hoại tử khối u và vị trí bệnh gần các mạch máu lớn.

Kết luận

Bevácizumab kết hợp với carboplatin và paclitaxel cải thiện đáp ứng tổng thể và thời gian tiến triển ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến triển hoặc tái phát. Các bệnh nhân có mô học không phải tế bào vảy dường như là một quần thể có kết quả được cải thiện và rủi ro an toàn chấp nhận được.

#bevacizumab #ung thư phổi không tế bào nhỏ #carboplatin #paclitaxel #giai đoạn II #thử nghiệm ngẫu nhiên #thời gian tiến triển bệnh #tỷ lệ đáp ứng #tác dụng phụ #ho ra máu
Thang đo Trầm cảm, Lo âu, và Căng thẳng (DASS): Dữ liệu chuẩn và cấu trúc tiềm ẩn trong mẫu lớn không lâm sàng Dịch bởi AI
British Journal of Clinical Psychology - Tập 42 Số 2 - Trang 111-131 - 2003

Mục tiêu: Cung cấp dữ liệu chuẩn cho Vương quốc Anh về Thang đo Trầm cảm, Lo âu, và Căng thẳng (DASS) và kiểm tra giá trị hội tụ, phân biệt, và giá trị cấu trúc của thang đo này.

Thiết kế: Phân tích cắt ngang, tương quan, và phân tích yếu tố khẳng định (CFA).

Phương pháp: DASS được áp dụng đối với mẫu không lâm sàng, đại diện rộng rãi cho dân số người lớn tại Vương quốc Anh (N = 1,771) về các biến nhân khẩu học. Các mô hình cạnh tranh của cấu trúc tiềm ẩn DASS được rút ra từ các nguồn lý thuyết và thực nghiệm, và được đánh giá bằng phân tích yếu tố khẳng định. Phân tích tương quan được sử dụng để xác định ảnh hưởng của các biến nhân khẩu học lên điểm số DASS. Giá trị hội tụ và phân biệt của thang đo được kiểm tra thông qua tương quan giữa thang đo này với hai thang đo khác về trầm cảm và lo âu (HADS và sAD), và một thang đo về khả năng xúc cảm tích cực và tiêu cực (PANAS).

Kết quả: Mô hình tốt nhất (CFI = .93) của cấu trúc tiềm ẩn DASS bao gồm ba yếu tố có mối tương quan tương ứng với các thang đo trầm cảm, lo âu và căng thẳng, với lỗi liên kết được phép giữa các mục cấu thành phụ thang DASS. Các biến nhân khẩu học chỉ có ảnh hưởng rất nhỏ đối với điểm số DASS. Độ tin cậy của DASS là xuất sắc, và thang đo sở hữu giá trị hội tụ và phân biệt đầy đủ.

Kết luận: DASS là một thang đo đáng tin cậy và có giá trị trong việc đánh giá các cấu trúc mà nó được thiết kế để phản ánh. Tính hữu dụng của thang đo này đối với các bác sĩ tại Vương quốc Anh được nâng cao nhờ việc cung cấp dữ liệu chuẩn từ các mẫu lớn.

#Thang đo Trầm cảm Lo âu Căng thẳng #dữ liệu chuẩn #giá trị hội tụ #giá trị phân biệt #mẫu không lâm sàng #phân tích yếu tố khẳng định #ảnh hưởng nhân khẩu học #PANAS #HADS #sAD
Phương Pháp Đo Đạc Thể Tích Nhồi Máu Não Bán Tự Động Dịch bởi AI
Journal of Cerebral Blood Flow and Metabolism - Tập 10 Số 2 - Trang 290-293 - 1990

Một phương pháp chính xác và có thể tái lặp để xác định thể tích của các cấu trúc chất xám bị nhồi máu đã được trình bày cho việc sử dụng với các hệ thống phân tích hình ảnh hiện có. Các vùng của các phần cắt được nhuộm với mật độ quang học cao hơn giá trị ngưỡng sẽ được nhận diện và đo tự động. Điều này loại bỏ khả năng sai sót và sự thiên lệch vốn có trong việc vạch ra thủ công các vùng bị nhồi máu. Hơn nữa, thể tích của chất xám bình thường còn sống được xác định thay vì thể tích của vùng nhồi máu. Cách tiếp cận này giảm thiểu sai số do phù nề, điều này làm biến dạng và làm lớn lên mô bị nhồi máu và mô trắng xung quanh.

Khuếch đại và định kiểu axit nucleic của rotavirus từ mẫu phân bằng phương pháp phản ứng chuỗi polymerase Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 28 Số 2 - Trang 276-282 - 1990

Phân đoạn gen rotavirus mã hóa glycoprotein chính lớp vỏ capsid ngoài VP7 đã được khuếch đại trực tiếp từ mẫu phân bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR). RNA hai sợi được chiết xuất từ mẫu phân đã được sử dụng làm khuôn mẫu cho phiên mã ngược, sau đó tiếp diễn trong cùng một hỗn hợp phản ứng với sự khuếch đại, sử dụng polymerase Taq. Nhiều điều kiện khác nhau đã được kiểm tra để tối ưu hóa sản lượng gen được khuếch đại. Nồng độ MgCl2, dimethyl sulfoxide, và RNA khuôn mẫu là các yếu tố quan trọng. Việc lựa chọn cặp mồi cho phép khuếch đại toàn bộ phân đoạn hoặc các phần cụ thể. Bằng cách sử dụng các mồi đặc hiệu kiểu loại có nguồn gốc từ các vùng khác nhau trên gen, chúng tôi đã phát triển một phương pháp định kiểu PCR mà mỗi kiểu huyết thanh virus của người tạo ra một kích thước phân đoạn đặc trưng, dễ nhận biết trong gel agarose. Phương pháp định kiểu PCR đã được áp dụng cho 10 chủng chuẩn rotavirus, bao gồm tất cả 6 kiểu huyết thanh của người đã biết (kiểu huyết thanh 1, 2, 3, 4, 8 và 9), và cho 34 mẫu phân đã được định kiểu huyết thanh trước đó bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch enzyme với kháng thể đơn dòng. Có sự tương quan tuyệt đối giữa các phương pháp sinh học phân tử và huyết thanh học. Ngoài ra, 14 mẫu phân không thể phân định kiểu huyết thanh bằng xét nghiệm miễn dịch enzyme với kháng thể đơn dòng có thể được phân định kiểu bằng phương pháp PCR. Ngoài ứng dụng cho việc phát hiện và định kiểu rotavirus trực tiếp từ phân, phương pháp PCR cung cấp một phương tiện nhanh chóng và hiệu quả để thu được số lượng lớn cDNA thích hợp cho việc giải trình tự, nhân bản và các nghiên cứu di truyền khác, không cần thiết phải nuôi cấy tế bào và tinh sạch virus.

#rotavirus #phản ứng chuỗi polymerase (PCR) #phiên mã ngược #glycoprotein VP7 #phân đoạn gen #định kiểu huyết thanh #cDNA #nghiên cứu di truyền học
Tổng số: 1,536   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10